Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh năm 1920 tại làng Phù Lai, gần cố đô Huế. Tố Hữu đến với thi ca khá sớm, từ năm 18 tuổi. Cùng năm đó, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 4/1939, ông bị quân Pháp bắt. Tháng 3/1942, ông vượt ngục Đác Giây, tiếp tục hoạt động cách mạng ở Thanh Hoá. Cách mạng tháng Tám, Tố Hữu làm Chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa Huế.
Năm 1946, tập thơ đầu tay Từ ấy ra đời, tập hợp các tác phẩm viết từ 1937 đến 1946, chia làm ba phần: Máu lửa (27 bài), Xiềng xích (30 bài) và Giải phóng (14 bài). Ba phần thơ là ba chặng hoạt động cách mạng của Tố Hữu. Chặng đầu là cái nhìn hiện thực, tố cáo xã hội đương thời, gắn với lòng say mê lý tưởng xoá áp bức bất công, xây dựng cuộc sống hạnh phúc, nhân ái. Chặng thứ hai là thơ trong tù, với những bài thơ xuất sắc của một tâm hồn chiến sĩ đa cảm. Chặng cuối là thơ vận động cách mạng tiến tới khởi nghĩa và cách mạng thành công - những bài thơ say đắm, sôi sục và hào hùng. Với Từ ấy, Tố Hữu lấy lại lòng tin vào đường lối văn học cách mạng cho cả nhà văn lẫn bạn đọc, khẳng định phẩm chất thẩm mỹ mới của thơ Việt Nam.
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, thơ Tố Hữu với các bài Phá đường, Bầm ơi... cùng với thơ ca của phong trào quần chúng đã trở thành một gợi ý có sức thuyết phục về phương pháp sáng tác hiện thực - lấy cuộc sống thực tế làm cốt lõi của thơ, hướng cảm xúc của công chúng vào những tình cảm cao cả đánh giặc cứu nước. Tập thơ Việt Bắc là tiếng hát của toàn dân kháng chiến. Với lời thơ bình dị, Tố Hữu đã đi từ tâm tình cá thể đến tâm tình của cộng đồng, phát hiện và biểu dương những tình cảm cao cả. Từ Việt Bắc, hình ảnh người dân yêu nước được khắc hoạ và trở thành biểu tượng mỹ h