Kính thưa độc giả:
Những người tìm hiểu hay tu theo đạo Phật, ít có người nghe đến hai danh từ “Huyền Ký” của Đức Phật dạy.
Vì sao vậy?
– Vì tập Huyền Ký này, Đức Phật dạy vào một năm sau cùng trước khi Đức Phật nhập Niết bàn. Đức Phật chỉ dạy riêng cho 15 đệ tử của Ngài là những vị đã giác ngộ “Yếu chỉ Thanh tịnh thiền” trở lên. Sau cùng, Đức Phật trao tập Huyền Ký này cho ông Ma Ha Ca Diếp, là vị Tổ Thiền tông đời thứ Nhất, nhờ vị Tổ này truyền riêng theo dòng Thiền tông. Vì vậy, các kinh điển phổ thông chúng ta không thấy tập Huyền Ký này là vậy.
Vì sao Đức Phật không truyền theo các kinh điển phổ thông?
Chúng tôi xin trích một phần nhỏ nguyên nhân mà Đức Phật dạy trong tập Huyền Ký của Ngài như sau:
Ngày xưa, tín ngưỡng của dân nước Ấn Độ chia ra làm 2 thành phần:
Thành phần thứ nhất:
* Những người bình dân họ tin rằng:
– Trái đất này là do “Thượng Đế” sinh ra.
– Con người và vạn vật cũng do Thượng Đế làm ra.
– Hai bên “Vai giáp” của mỗi con người có 2 vị “Thần chấm điểm” việc làm thiện hay ác của con người.
– Khi con người chết đi, thì được các vị “Phán quan” xem việc làm thiện và ác của họ ở mức độ nào mà trình với “Vua Diêm Vương”:
– Nếu họ làm thiện nhiều, thì được Vua Diêm Vương trình lên Thượng Đế cho lên “Thiên Đàng” ở hưởng sung sướng đời đời.
– Còn làm ác nhiều, thì Vua Diêm Vương tự Ngài sai “Ngưu Đầu Mã Diện” đem giam vào các tầng Địa Ngục để trị tội.
Thành phần thứ hai:
* Những người tu hành họ tin rằng:
– Trái đất này là do “Đấng Tạo Hóa” sanh ra.
– Loài người và vạn vật cũng do Đấng Tạo Hóa làm nên.
– Họ cũng tin tưởng: Loài người sống nơi trái đất này có 2 con đường đi sau khi chết:
Một: Làm thiện thì được lên cõi Trời hưởng phước.
Hai: Làm ác phải bị đày vào Địa Ngục để thọ lãnh quả xấu do họ tự tạo ra nơi thế giới này.
Do vậy:
Dạng người tu hành thứ nhất:
– Họ chủ trương làm 2 việc như sau:
Một: Mỗi ngày phải “Sám hối” những việc làm sai trái của họ.
Hai: Cầu xin Đấng Tạo Hóa rước họ về “Nước Trời” ở để không còn bị khổ ở Thế gian này nữa.
Dạng người tu hành thứ hai: Họ tin tưởng rằng:
– Muốn hết tội lỗi do mình làm ra, duy nhất chỉ xuống sông Hằng tắm cho sạch thì mới hết tội lỗi được.
– Và nhiều tín ngưỡng khác nữa.
Trên đây là người xưa của nước Ấn Độ tin và làm như vậy.
Cũng xin nói rõ: Ngày xưa ở nước Ấn Độ mỗi vùng có một vị Vua cai quản. Ở nước Ca Tỳ La Vệ có vị Vua tên là Tịnh Phạn và vợ tên là Ma Da. Danh gọi vợ Vua là Hoàng hậu. Hoàng hậu Ma Da sanh ra được đứa con tên là Tất Đạt Đa và phong là Thái tử, để sau này tiếp nối ngôi Vua nước Ca Tỳ La Vệ này.
Khi Thái tử Tất Đạt Đa trưởng thành, Thái tử cũng có vợ con như bao nhiêu người khác. Nhưng Ngài không tin những việc làm của nhân dân cũng như những vị tu sỹ dạy. Riêng Thái tử Tất Đạt Đa có 4 cái thắc mắc như sau:
Một: Con người từ đâu đến với thế giới này?
Hai: Đến với thế giới này để rồi bị: Sanh – Già – Bệnh – Chết!
Ba: Khi còn sống, tranh giành hơn thua chém giết với nhau sau cùng rồi cũng phải lìa bỏ tất cả.
Bốn: Sau khi chết rồi sẽ đi về đâu?
Bốn cái thắc mắc nói trên, những người có học vấn cao trong Hoàng triều cũng như những người ở ngoài nhân dân kể cả các vị tu sỹ có danh tiếng cũng không ai giải thích cho Ngài thỏa mãn được.
Thái tử là một con người có lòng cương quyết tìm ra cho được 4 thắc mắc của mình. Vì lòng cương quyết đó, sau cùng Thái tử cũng đã biết được.
Thái tử Tất Đạt Đa biết được bằng cách nào?
– Thái tử tu “Thanh tịnh thiền”, chứng được “Tam minh Lục thông” và “Ngũ nhãn” như sau:
- Tam minh: Ba cái sáng:
1/- Thiên nhãn minh: Thấy được khắp trong một Tam giới, mà chúng ta gọi là một Thái Dương hệ.
2/- Túc mạng minh: Biết được đầy đủ con người và vạn vật trong một tam giới.
3/- Lậu tận minh: Biết được tận cùng vật chất và tinh thần của một con người ở trái đất hay trong một tam giới này.
- Ngũ nhãn: Năm con mắt của Ngài nhìn thấy được:
1/- Nhục nhãn: Mắt thịt bình thường của Ngài.
2/- Thiên nhãn: Mắt Trời của Ngài nhìn thấy và biết được các cõi Trời trong một Tam giới như sau:
– Thấy và biết có 33 cõi Trời.
– Thấy và biết có 6 nước Tịnh Độ.
– Thấy và biết có 5 hành tinh nữa cũng giống như trái đất này.
– Thấy và biết có Hằng hà sa số các hành tinh “Vật tư” cấu tạo bằng: “Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ – Không khí và điện từ Âm Dương”.
3/- Huệ nhãn: Mắt Huệ của Ngài nhìn thấy và biết các cõi vô hình cấu tạo bằng điện từ Âm Dương nhiều màu sắc và không màu sắc.
4/- Pháp nhãn: Mắt Pháp của Ngài nhìn thấy và biết sinh hay diệt từng “Sát na” của hạt bụi, cũng như sinh và diệt từng hành tinh một trong một Tam giới này (Chữ sát na hiện giờ chúng ta gọi là 1/10 giây).
5/- Phật nhãn: Mắt Trùm khắp của Ngài nhìn thấy và biết được trùm khắp trong Càn khôn vũ trụ này như:
* Vật nhỏ nhất là “Vi trần”, mà chúng ta gọi là nguyên tử còn nhỏ hơn nữa là điện tử.
* Vật lớn nhất là hành tinh. Ngài sử dụng Phật nhãn nhìn thấy và biết được như sau:
* Một hệ Thái dương: Ngài gọi là một “Tam giới”.
* Một ngàn Tam giới: Ngài gọi là một “Tiểu thiên thế giới”.
* Một triệu Tam giới: Ngài gọi là một “Trung thiên thế giới”.
* Một tỷ Tam giới: Ngài gọi là một “Đại thiên thế giới”.
Ngài dạy:
– Đem Đại thiên thế giới nhân cho 3 lần ngàn nữa, số ra này là một tỷ tỷ Tam giới, Ngài gọi số ra này là “Tam thiên đại thiên thế giới”. Mà Phật nhãn của Ngài nhìn thấy khắp trong Càn khôn vũ trụ này có “Hằng hà sa số Tam thiên đại thiên thế giới” như vậy.
Đức Phật muốn đem sự thấy và hiểu biết của Ngài nói lại cho nhân dân nước Ngài biết; nhưng khi Ngài nói ra thì nhân dân Ngài nói Ngài là người bị điên!
Vì sao nhân dân Ngài nói Ngài như vậy? Đức Phật trình bày rõ ràng như sau:
– Vì nhân dân nước Ngài tin rằng:
– Trái đất này là do ông Thượng Đế làm ra.
– Loài người cũng vậy.
– Giàu cũng là do ông Thượng Đế ban phước.
Nói tóm lại, trái đất này và sự sống trên trái đất này đều do ông Thượng Đế quyết định cả.
Khi Thái tử Tất Đạt Đa tu Thanh tịnh thiền chứng được “Tam minh Lục thông” và có “Ngũ nhãn” nên Ngài thấy và biết như nói ở trên, nhưng không cách nào nói cho nhân dân của Ngài chấp nhận.
Khi Đức Phật trở về Hoàng cung thăm vua Cha và có ý độ những người trong Hoàng cung, nhưng khi Đức Phật nói ra không ai chấp nhận. Trong Hoàng cung, có Hoàng thúc của Ngài tên là Tịnh Thanh gay gắt hỏi như sau:
– Con nói, con xuất Hoàng cung tu hành nay được thành đạo. Vậy, con lấy gì làm bằng chứng?
Đức Phật lễ phép trình thưa với Hoàng thúc rằng:
– Kính thưa Hoàng thúc, con xuất Hoàng cung tu Thanh tịnh thiền chứng được Tam minh Lục thông và Ngũ nhãn.
Hoàng thúc Tịnh Thanh hỏi:
– Vậy, con hãy chứng minh cho Hoàng thúc và những người trong Hoàng cung những gì mà con biết?
Đức Phật trình với Hoàng thúc Tịnh Thanh:
– Con xin trình bày cái thấy và biết của Phật nhãn của con như sau:
Một: Trên trái đất này, không vật gì thoát ra ngoài qui luật: Thành – Trụ – Hoại – Diệt được.
Hai: Tất cả động vật và thực vật sinh sản ra phải qua công thức vật lý Âm Dương.
Ba: Không vật gì đứng yên một chỗ, mà nó phải luân chuyển thì mới tồn tại được.
Còn Hoàng thúc cũng như những người trong Hoàng triều và nhân dân nước Ca Tỳ La Vệ tin rằng:
– Trái đất.
– Loài người.
– Vạn vật, v.v…
Là do ông Thượng Đế sinh và làm ra, con xin trình cho Hoàng thúc biết:
– Trong mỗi một Tam giới có 1 ông Thượng Đế cai quản nước trời Thượng Đế; mà trong Càn khôn vũ trụ này có Hằng hà sa số ông Thượng Đế. Con sử dụng Phật nhãn của con quan sát thấy ông Thượng Đế chỉ là một ông trời làm chúa ở cõi trời Thượng Đế, ông cũng bị luân hồi như bao nhiêu người trời khác. Giống như Phụ vương con vậy, tuy Phụ vương làm vua của nước Ca Tỳ La Vệ này, nhưng Phụ vương con cũng bị: Sinh – Lão – Bịnh – Tử như người dân thường vậy, chứ đâu có nằm ngoài qui luật này được.
Hoàng thúc Tịnh Thanh nghe Thái tử Tất Đạt Đa trình bày một cách hết sức thuận lý, nên ông tâm phục khẩu phục và khen:
Thật con có sự hiểu biết hơn người, con được xứng đáng là một con người “Đại giác ngộ”.
Vậy, Hoàng thúc tặng con mấy chữ:
Tất Đạt Đa hiểu biết hơn người
Hoàng thúc khẩu phục, có lời khen con
Tâm Thúc đã rõ không còn
Tin tưởng Thần Thánh, nhờ con trình bày.